Thực
trạng rối loạn trầm cảm tại Việt Nam
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần
thường gặp, là nguyên nhân hàng đầu gây ra gánh nặng bệnh tật tại Việt Nam, làm
cho hàng triệu người bị giảm hoặc mất sức lao động. WHO ước tính năm 2015, Việt
Nam có khoảng 3.564.000 người bị rối loạn trầm cảm, chiếm 4,0% dân số. Tất cả mọi
người đều có thể mắc trầm cảm, tuy nhiên nữ giới có tỷ lệ mắc cao hơn nam giới.
Ba nhóm tuổi có nguy cơ cao mắc trầm cảm gồm: học sinh và thanh thiếu niên, phụ
nữ trước và sau sinh và người cao tuổi. Trầm cảm luôn nằm trong 10 nguyên nhân
hàng đầu gây gánh nặng bệnh tật ở mọi nhóm tuổi, kể cả nhóm dưới 15 tuổi.
Nguyên
nhân và biểu hiện của trầm cảm
Nguyên nhân: Trầm cảm thường gặp ở những người
bị stress sau khi gặp khó khăn trong cuộc sống như: thất nghiệp, mất người
thân, đổ vỡ quan hệ, mâu thuẫn gia đình, thất bại trong học tập, khủng hoảng
tinh thần… hoặc sau khi mắc một số bệnh, đặc biệt là các bệnh nặng, bệnh mạn
tính như: ung thư, đái tháo đường, tim mạch, đột quỵ…
Biểu hiện của bệnh trầm cảm: Người bị trầm cảm điển hình có
biểu hiện buồn chán dai dẳng, mệt mỏi, giảm hoặc mất sự quan tâm, thích thú với
những hoạt động thường thích làm, kèm theo không có khả năng thực hiện các công
việc hàng ngày, thời gian kéo dài từ hai tuần trở lên. Trầm cảm không được chữa
trị sẽ ảnh hưởng đến khả năng làm việc, học tập và cuộc sống hàng ngày, trở
thành vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Trường hợp xấu nhất, trầm cảm có thể dẫn đến
tự tử. Nghiên cứu cho thấy người trầm cảm có nguy cơ tự tử cao gấp 25 lần so với
người khác (nguy cơ tự tử trong đời người trầm cảm là 4%).
Các
biện pháp phòng, chống trầm cảm
Phòng, chống trầm cảm cần thiết là
một nội dung ưu tiên của chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần ở Việt Nam,
trong đó tập trung vào nhóm nguy cơ cao nói trên. Để dự phòng và kiểm soát trầm
cảm hiệu quả, cần tiếp tục tăng cường các giải pháp sau: (1) Đẩy mạnh hoạt động
truyền thông, giáo dục sức khỏe, làm cho người dân có nhận thức đúng về trầm cảm,
cách nhận biết, phát hiện sớm để đi khám, tư vấn và điều trị kịp thời; hỗ trợ,
giúp đỡ, tạo môi trường hòa nhập để không kỳ thị, phân biệt đối xử với người có
rối loạn trầm cảm; (2) Phối hợp triển khai các chính sách, chương trình nâng
cao sức khỏe tâm thần phù hợp với các nhóm đối tượng khác nhau thông qua các mô
hình trong trường học nâng cao sức khỏe, tăng cường kỹ năng sống, câu lạc bộ sức
khỏe người cao tuổi và chương trình tăng cường hoạt động thể lực cho người dân;
(3) Tăng cường năng lực hệ thống y tế tuyến cơ sở, đồng thời đầu tư phát triển
các cơ sở chuyên khoa tâm thần, lồng ghép phù hợp công tác chăm sóc sức khỏe
tâm thần vào hoạt động của các cơ sở y tế đa khoa, chuyên khoa, chuyên ngành
khác ở tất cả các tuyến để cung cấp các dịch vụ dự phòng, phát hiện sớm, quản
lý, tư vấn, chăm sóc cùng với phát triển các dịch vụ tâm lý trị liệu, phục hồi
chức năng và hỗ trợ xã hội cho người rối loạn trầm cảm ở cộng đồng.
Mỗi cá nhân có thể phòng ngừa trầm
cảm bằng cách thực hiện lối sống cân bằng như: nghỉ ngơi và ngủ điều độ, chế độ
ăn cân đối và tập luyện thể dục thể thao thường xuyên. Được bảo vệ không bị bạo
lực, xâm hại và mất mát cũng giúp phòng ngừa trầm cảm. Trầm cảm thể nhẹ có thể
điều trị khỏi mà không dùng thuốc, có thể được các bác sĩ không chuyên khoa chẩn
đoán và điều trị tại tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chăm sóc chuyên khoa là cần
thiết cho các trường hợp trầm cảm phức tạp.
Khuyến
cáo đối với cộng đồng:
1. Trầm cảm không phải là dấu hiệu của sự yếu
đuối. Bất kỳ ai cũng có thể mắc trầm cảm.
2. Để dự phòng trầm cảm: Bạn hãy TRÒ CHUYỆN
với mọi người bởi vì trò chuyện là một trong những biện pháp đơn giản nhất để
phòng và điều trị trầm cảm.
3. Nếu bạn nghĩ rằng mình bị trầm cảm: Hãy
tích cực giao tiếp với mọi người, hãy chia sẻ với ai đó mà bạn tin cậy về cảm
giác và suy nghĩ của mình. Bạn hãy tiếp tục làm việc, tập luyện thể dục thể
thao, đồng thời tránh sử dụng đồ uống có cồn và các chất gây nghiện.
4. Khi cần trợ giúp chuyên môn: Hãy đến cơ sở
y tế gần nhất để được cán bộ y tế hướng dẫn, tư vấn về sức khỏe.
(Theo Cục Y tế Dự phòng – Bộ Y tế)
|