Telomerase hiện đang là một đích tác động đầy tiềm
năng của các thuốc chống ung thư thế hệ mới. Mặc dù được phát hiện bởi Greider
và Blackburn vào năm 1984 nhưng mãi đến năm 2009, telomerase mới được chứng
minh có vai trò trong sự lão hóa tế bào và ung thư. Thành tựu này đã giúp
Szostak, Greider và Blackburn giành giải thưởng cao quý Nobel Y học. Tiềm năng
của việc thiết kế và nghiên cứu các dẫn chất ức chế telomerase trực tiếp hay
gián tiếp không chỉ giới hạn trong điều trị ung thư mà còn mở rộng ra nhiều bệnh
lý mang tính thời sự khác như bệnh tim mạch, đái tháo đường, bệnh lý tủy xương…
vốn là những nguyên nhận gây tử vong hàng đầu trên thế giới hiện nay. Việc
nghiên cứu các nhóm dẫn chất có khả năng ức chế enzym telomerase hứa hẹn sẽ đưa
ra những phân tử thuốc tiềm năng trong điều trị ung thư, vừa rút ngắn thời gian
nghiên cứu, tổng hợp, đồng thời đem lại hiệu quả điều trị cao. Trong nghiên cứu
này, mối quan hệ định lượng giữa cấu trúc và tác dụng ức chế telomerase được
xây dựng và tiến hành sàng lọc ảo nhằm tìm kiếm các cấu trúc có khả năng ức chế
telomerase sử dụng trên lâm sàng. Đối
tượng
Telomerase là một phức hợp
ribonucleoprotein, bao gồm hai thành phần chính, một tiểu đơn vị xúc tác sao
chép ngược (hTERT 127 kD; Gene ID 7015) và một tiểu đơn vị ARN (hTR; Gene ID
7012).
Phương pháp
- Các chất ức chế telomerase
- Mô hình QSAR – Đánh giá mô hình
Kết quả
Trong nghiên cứu này, mô hình 2D-QSAR trên
các chất ức chế hoạt động telomerase với tập dữ liệu 110 chất thuộc 3 nhóm dẫn
chất oxadiazol, pyrazol và flavonoid được xây dựng. Mô
hình 2D-QSAR thu được có các thông số đáng tin cậy gồm Q2 = 0,54; R2 = 0,62; CCC = 0,76 và
mô hình đạt
yêu cầu về sai số giữa giá trị dự đoán và giá trị thực nghiệm. Sử dụng phương
pháp đánh giá mô hình theo Roy và đánh giá Y-scrambling cho kết quả dự đoán với
độ tin cậy khá tốt. Ứng dụng của mô hình có thể giúp xác định được một số thuốc
trên thị trường có tiềm năng phát triển hoạt tính sinh học mới như là các chất
ức chế telomerase có thể áp dụng trong điều trị ung thư.
|